Nguyễn Thiện Thuật (1844-1926), tên thật là Mạnh Hiếu, còn gọi là Tán Thuật (do từng giữ chức Tán tương), lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19.
Nguyễn Thiện Thuật, quê làng Xuân Dục huyện Đường Hào (nay là làng Xuân Đào xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên), là con cả của một gia đình nhà nho nghèo, thuộc dòng họ hậu duệ của Nguyễn Trãi[1]. Cha ông là tú tài Nguyễn Tuy làm nghề dạy học, các em trai ông là Nguyễn Thiện Dương và Nguyễn Thiện Kế sau này cũng đều tham gia khởi nghĩa Bãi Sậy.
Năm 1874, khi đã đỗ Tú tài, ông được cử làm Bang biện do có công đánh giặc ở Kinh Môn tỉnh Hải Dương. Năm (Bính Tý) 1876 ông tiếp tục dự kỳ thi nho học nhưng chỉ đậu Cử nhân, cùng khoa thi này Phan Đình Phùng vào năm sau đỗ Đình nguyên Tiến sĩ. Sau đó Nguyễn Thiện Thuật được thăng chức tri phủ ở Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Rồi ông được bổ nhiệm giữ chức Tán tương quân vụ tỉnh Hải Dương[2]. Năm 1881, ông giữ chức Chánh sứ sơn phòng tỉnh Hưng Hóa kiêm chức Tán tương quân vụ tỉnh Sơn Tây. Khi Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai năm 1882-1883, Nguyễn Thiện Thuật đã kháng lệnh triều đình nhà Nguyễn, quyết tâm đánh Pháp.Tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi
hạ chiếu Cần Vương, Nguyễn Thiện Thuật trở về Bãi Sậy,
thay Đinh Gia Quế đã mất, lãnh đạo khởi nghĩa Cần Vương kháng Pháp. Do ông là
viên quan tích cực hưởng ứng phong trào Cần Vương nhất ở Bắc kỳ, nên vua Hàm Nghi
phong cho ông chức Bắc kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, nhằm làm hạt nhân tập
hợp quan lại tiến bộ và dân chúng ở Bắc kỳ để kháng Pháp.
Nghĩa quân Bãi Sậy của Nguyễn
Thiện Thuật đã áp dụng chiến thuật du kích, dựa
vào sự ủng hộ của dân chúng, lúc ẩn lúc hiện đánh úp đồn trại Pháp trên đường Hà Nội
- Hưng Yên
- Hải Dương, hay dựa vào địa thế sình lầy, lau
sậy um tùm dễ tiến thoái của căn cứ, để chống Pháp càn quét vào Bãi Sậy.
Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy lan rộng ra khắp tỉnh Hưng Yên
và các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, liên kết được với một số lãnh tụ Cần
Vương khác như Tạ Hiện [3]
ở Thái Bình, Nam Định,... tạo thành cả một phong trào sâu rộng ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, suốt những năm (1885-1889).
Năm 1888, Pháp cho Hoàng Cao Khải đem quân đàn áp. Tán Thuật trao
quyền chỉ huy cho em trai là Nguyễn Thiện Kế và tuỳ tướng là Đốc Tít (Nguyễn
Đức Mậu), rồi sang Trung Quốc tìm gặp Tôn Thất Thuyết bàn cách tăng viện, nhưng
việc không thành. Ông mất vì bệnh ngày 25 tháng 5
năm 1926
và được an táng tại trên quả đồi thuộc hương Quan Kiều, ngoại vi thành phố Nam
Ninh, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Bia mộ khắc dòng chữ “Việt Nam cách mạng. Cố
tướng quân Nguyễn Công Thiện Thuật - Chi mộ”. Vào năm 1990, việt kiều ở Trung
Quốc đã di chuyển phần mộ Nguyễn Thiện Thuật từ đồi hương Quan Kiều về đồi
hương Đại Lĩnh, phía nam thành phố Nam Ninh.